Hợp tác xã nông nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng
Sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gọi tắt là Nghị quyết 26), với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng, sự chung sức, đồng lòng của toàn dân, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn.
Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
Nông dân đã phát huy tốt hơn vai trò là chủ thể, tham gia hợp tác, liên kết, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế, khôi phục và phát triển ngành nghề nông thôn, xây dựng nông thôn mới, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn dân, về đích sớm hơn so với mục tiêu Nghị quyết đề ra; thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng; diện mạo nông thôn Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt; niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta ngày càng được củng cố, nâng cao…
Bên cạnh những thành tựu đạt được như trên, nông nghiệp phát triển còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết; chất lượng, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã chưa cao; thu hút đầu tư cho phát triển nông nghiệp, dịch vụ ở nông thôn gặp nhiều khó khăn…
Một trong những nguyên nhân của hạn chế này là nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa thật đầy đủ, đúng mức, nên có lúc, có nơi cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền còn thiếu chủ động, trông chờ, ỷ lại, chưa sâu sát, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết.
Ngoài ra, việc đầu tư từ ngân sách nhà nước chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra; hiệu quả thu hút, sử dụng vốn đầu tư xã hội cho phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa cao.
Thống kê đến 31/10/2022, dư nợ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn ở Quảng Ninh là 21.357 tỷ đồng, chiếm 13,3% dư nợ toàn địa bàn, với 104.544 khách hàng còn dư nợ. Trong đó: Dư nợ ngắn hạn là 12.252 tỷ đồng, dư nợ trung, dài hạn là 9.105 tỷ đồng; dư nợ tại địa bàn nông thôn là 16.191 tỷ đồng, dư nợ ngoài địa bàn nông thôn là 5.166 tỷ đồng; cho vay không có bảo đảm bằng tài sản là 6.662 tỷ đồng, chiếm 26,5% dư nợ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
|
Thông tin từ tỉnh Quảng Ninh về kết quả thực hiện chương trình tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị quyết 26, tỉnh Quảng Ninh cho thấy, mặc dù là tỉnh công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GRDP của tỉnh và có xu hướng giảm dần nhưng nhu cầu vốn đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn rất lớn và cần thiết.
Bám sát tình hình kinh tế xã hội địa phương, chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước và của Tỉnh, các ngân hàng trên địa bàn đã tập trung, ưu tiên nguồn vốn tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Vốn tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn chủ yếu tập trung ở đối tượng hộ gia đình, cá nhân và các doanh nghiệp, đặc biệt là đối tượng doanh nghiệp, có sự tăng trưởng đáng kể về tỷ trọng dư nợ và số lượng doanh nghiệp có dư nợ.
Trong 13 năm, Ngân hàng Chính sách xã hội đã mở rộng cho vay đối với các đối tượng chính sách, giúp các đối tượng này có vốn đầu tư cho phát triển kinh tế gia đình, sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống; góp phần giảm nghèo bền vững và thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Quảng Ninh và các chi nhánh tổ chức tín dụng (TCTD) đã tổ chức họp tập, quán triệt Nghị quyết 26 tới đảng viên, cán bộ công nhân viên và lao động trong toàn ngành nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và các quan điểm, chủ trương thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Đến 31/5/2021, dư nợ cho vay các chương trình tín dụng chính sách lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt 2.855 tỷ đồng, tăng 2.042 tỷ đồng, gấp 3,5 lần so với 31/12/2008, với 80.181 khách hàng còn dư nợ. Trong đó có 79.939 khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản, chiếm 99,7% số khách hàng với dư nợ 2.758 tỷ, chiếm 96,6% dư nợ. Dư nợ cho vay các chương trình tín dụng chính sách lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm 16,3% trong tổng dư nợ cho vay lĩnh vực này trên địa bàn, song số khách hàng vay chiếm tỷ trọng lớn 71,4%.
Về những khó khăn, hạn chế trong triển khai chương trình tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tỉnh Quảng Ninh cũng cho biết, đối tượng vay vốn là các hợp tác xã (HTX), nhất là HTX nông nghiệp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng.
Nguyên nhân do khả năng tài chính ở nhiều HTX yếu hoặc không xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh khả thi và có hiệu quả. Để được vay vốn không có tài sản bảo đảm, các HTX phải có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh.
Mặt khác, theo quy định, các HTX vay trong hạn mức ưu đãi không phải làm thủ tục thế chấp tài sản chỉ cần nộp ngân hàng cho vay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy xác nhận của UBND cấp xã về việc HTX chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp, tuy nhiên thực tế rất ít HTX có được điều kiện này.
Thực hiện Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 07//3/2017, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 về Chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Tuy nhiên trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chưa có dự án đáp ứng điều kiện theo quy định tại Quyết định này.
    |
 |
Agribank là ngân hàng duy nhất triển khai cho vay xây dựng nông thôn mới đến 100% số xã trong cả nước. Ảnh: NT |
Cần phát huy vai trò của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (gọi tắt là Nghị quyết 19) đã xác định một số giải pháp, nhiệm vụ để hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó có nội dung tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi, khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; hỗ trợ tín dụng cho hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ nông thôn phát triển sản xuất kinh doanh; nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng.
Đặc biệt là cần phát huy vai trò của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong cung cấp tín dụng đối với các hộ sản xuất nông nghiệp, nhất là với hộ nghèo và các đối tượng chính sách; ngăn chặn, xử lý nghiêm tín dụng đen…
Được biết, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh đã tham mưu UBND tỉnh xây dựng dự thảo Chương trình hành động của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết 19; Ban Cán sự đảng UBND tỉnh cũng đã gửi báo cáo dự thảo tới Ban Thường vụ Tinh ủy để ban hành.
Theo đó, nội dung về lĩnh vực tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn là huy động tối đa các nguồn lực xã hội từ nguồn vốn tín dụng, lồng ghép có hiệu quả nguồn vốn các chương trình, đề án, dự án có cùng mục tiêu để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới.
Về triển khai tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1630/QĐ -TTg ngày 28/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 26-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh.
Ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh Quảng Ninh cũng đã phổ biến, triển khai Nghị quyết 19 đến các TCTD, chi nhánh TCTD trên địa bàn; chỉ đạo các TCTD, chi nhánh TCTD tăng cường triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; chú trọng ưu tiên nguồn vốn tín dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các hộ nông thôn, hợp tác xã, doanh nghiệp...; tạo điều kiện thuận lợi tối đa theo quy định và hỗ trợ tích cực để các tổ chức và cá nhân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phát triển mạnh mạng lưới hoạt động và mở rộng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đến các địa bàn các xã, thôn, bản miền núi, biên giới, hải đảo để các hộ nghèo và đối tượng chính sách trên địa bàn thuận lợi tiếp cận vốn tín dụng, phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.