Không có cơ sở để khiếu nại giá đất bồi thường phải thỏa thuận
Năm 2021, thực hiện Dự án Khu đô thị Quảng trường biển, UBND thành phố Sầm Sơn thu hồi của gia đình bà Đợi diện tích đất 358,1m2 tại thửa đất số 37, tờ bản đồ số 26, trích đo bản đồ địa chính phường Trung Sơn năm 2018. Bà Đợi KN 2 nội dung sau: Diện tích đất của gia đình bà đang quản lý, sử dụng không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Điều 61, Điều 62 Luật Đất đai 2013 nên giá đất bồi thường phải thỏa thuận với gia đình bà; bà yêu cầu UBND thành phố Sầm Sơn thu hồi, bồi thường 382m2 đất ở theo Giấy CNQSD đất được cấp năm 2008 cho gia đình bà.
KN của bà Đợi đã được Chủ tịch UBND thành phố Sầm Sơn giải quyết tại Quyết định giải quyết KN lần đầu số 1281/QĐ-UBND ngày 16/3/2022. Không đồng ý, bà tiếp tục KN đến Chủ tịch UBND tỉnh.
Theo bà Đợi trình bày, thửa đất bà đang KN có nguồn gốc là đất của tổ tiên để lại cho gia đình. Đến năm 2008, gia đình bà được UBND thị xã Sầm Sơn cấp Giấy CNQSD đất, diện tích 382m2 thuộc thửa 66, tờ bản đồ số 10, thửa đất tại khu phố Trung Kỳ (nhận tặng cho quyền sử dụng đất). Từ khi bố mẹ cho đến nay, gia đình bà sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, không lấn chiếm, không bị ai lấn chiếm. Lý do hiện trạng sử dụng đất ít hơn diện tích ghi trong Giấy CNQSD đất là do năm 2018 đoàn đo đạc đo chưa chính xác mốc giới của gia đình bà.
Theo kết quả xác minh, Dự án Khu đô thị Quảng trường biển thành phố Sầm Sơn đã được Hội đồng nhân dân tỉnh chấp thuận danh mục dự án phải thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa tại Nghị quyết số 279/NQ-HĐND ngày 16/6/2020 (điều chỉnh Nghị quyết số 160/NQ-HĐND ngày 04/4/2019) thuộc đối tượng Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại điểm d Khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013.
Sở Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt Trích lục bản đồ địa chính khu đất phục vụ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng tại phường Trung Sơn, Dự án Khu đô thị quảng trường biển Sầm Sơn, thành phố Sầm Sơn. Trong đó, có diện tích đất thu hồi của gia đình bà Đợi.
UBND thành phố Sầm Sơn thông báo thu hồi đất cho các hộ gia đình, cá nhân trong đó có hộ bà Đợi đúng theo phạm vi quy hoạch chi tiết 1/500 đã được UBND tỉnh phê duyệt.
Như vậy, Dự án này thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013. Việc bà Đợi KN giá đất bồi thường phải thỏa thuận với gia đình bà là không có cơ sở.
|
|
Một góc thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (Ảnh minh họa - Internet) |
UBND thành phố Sầm Sơn cấp Giấy CNQSD đất không đúng quy định
Về nguồn gốc đất, theo Báo cáo số 108/BC-UBND ngày 15/02/2022 của UBND phường Trung Sơn, thửa đất bà Đợi đang KN có nguồn gốc nhận tặng cho quyền sử dụng đất, sử dụng ổn định, có nhà ở trước ngày 18/12/1980.
Ngày 17/01/2007, bà Lê Thị Vệ (mẹ đẻ ông Lê Văn Thụ, mẹ chồng bà Đợi) được UBND thị xã Sầm Sơn cấp Giấy CNQSD đất số AH 532838, số vào sổ cấp giấy H01211, tại thửa đất số 62, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.235m2. Trong đó, đất ở 300m2; đất vườn 935m2, Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất như Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Ngày 06/6/2008, UBND thị xã Sầm Sơn điều chỉnh biến động tại mục VI của Giấy CNQSD đất đã cấp cho bà Vệ. Cụ thể, Quyết định số 2250/QĐ-UBND của UBND thị xã Sầm Sơn công nhận quyền sử dụng 935m2 đất vườn liền thửa là đất ở.
Ngày 25/10/2007, bà Vệ làm 4 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho các con, trong đó vợ chồng bà Đợi được 382m2. Trên hợp đồng có chứng thực của UBND phường Trung Sơn ngày 17/12/2007, duyệt của UBND thị xã Sầm Sơn ngày 08/8/2008.
Ngày 08/8/2008, vợ chồng bà Đợi được UBND thị xã Sầm Sơn cấp Giấy GCNQSD đất số AM 328269, số vào sổ cấp H01760, tại thửa số 66, tờ bản đồ số 10, diện tích 382m2, loại đất ở đô thị, nguồn gốc sử dụng đất: Nhận tặng cho quyền sử dụng đất. Đồng thời, UBND thị xã Sầm Sơn cũng cấp Giấy CNQSD đất cho 3 người con còn lại của bà Vệ.
Tuy nhiên, xác minh tại UBND phường Trung Sơn cho thấy, bà Lê Thị Vệ, sinh năm 1932, khi bà Vệ chết gia đình chưa đi khai tử nên không có hồ sơ lưu ngày chết tại UBND phường. Qua quá trình xác minh ngày chết của bà Vệ là ngày 08/3/2003 (âm lịch) tức ngày 09/4/2003 (dương lịch), tại khu Mả Bồ, phường Trung Sơn, thành phố sầm Sơn.
Chính vì vậy, việc UBND thị xã Sầm Sơn cấp Giấy CNQSD đất cho bà Vệ năm 2007 (bà Vệ chết tháng 4/2003) và sau đó năm 2008 cấp 2 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà Đợi; cấp Giấy CNQSD đất cho 3 người con còn lại của bà Vệ là không đúng quy định tại Khoản 3 Điều 14 Mục 1 Chương III Bộ Luật Dân Sự năm 2005: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”.
Song thửa đất bà Đợi đang KN có nguồn gốc của bà Vệ để lại, đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013.
Tại Biên bản kiểm đếm bắt buộc khối lượng bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng ngày 27/10/2021, số liệu đo đạc thực tế của thửa đất đang KN là 358,1m2 (nhỏ hơn diện tích ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); hiện trạng thửa đất đang sử dụng ổn định, không lấn chiếm, không tranh chấp, có ranh giới rõ ràng với các thửa đất xung quanh. Căn cứ theo quy định tại Khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013, UBND thành phố Sầm Sơn bồi thường theo diện tích đất thực tế là đúng quy định. Việc bà Đợi KN được thu hồi, bồi thường 382m2 đất ở theo Giấy CNQSD đất số AM 328269 cấp năm 2008 là không có cơ sở.
Từ kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và các căn cứ pháp luật nêu trên, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa quyết định KN của bà Đợi là không có cơ sở. Đồng thời, yêu cầu Chủ tịch UBND thành phố Sầm Sơn chỉ đạo Thanh tra thành phố Sầm Sơn thực hiện thanh tra, xem xét, kết luận rõ đúng sai theo quy định của pháp luật và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cấp Giấy GCNQSD đất cho bà Lê Thị Vệ năm 2007; sau đó cấp 2 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà Đợi; cấp Giấy GCNQSD đất cho 3 người con còn lại của bà Vệ. Mặt khác, thu hồi số tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng không đúng quy định (nếu có) về ngân sách nhà nước./.