Bàn về nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Thứ hai, 14/02/2022 14:32
(ThanhtraVietNam) - Với những yêu cầu đặt ra hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN) đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao trách nhiệm, vai trò người đứng đầu là hết sức cần thiết, tạo hành lang pháp lý đầy đủ khuyến khích người đứng đầu nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm để nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước và trong công tác cán bộ. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ được đảm bảo bằng hệ thống pháp luật thống nhất, đầy đủ, toàn diện.

Cụ thể, việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu CQHCNN đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải thể hiện trên các nguyên tắc và nội dung như sau:

Thứ nhất, pháp luật người đứng đầu CQHCNN phải kịp thời thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng và tinh thần Hiến pháp 2013

Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời làm sâu sắc hơn tư cách Đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta. Việc phủ nhận hoặc muốn hạ thấp vai trò lãnh đạo, quyền lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản là trái với Hiến pháp, pháp luật. Mặt khác, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta, vấn đề Nhân dân giám sát Đảng trở thành một điều hiến định. Khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 xác định rõ trách nhiệm của Đảng trong mối liên hệ với Nhân dân, nhấn mạnh Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phải phục vụ Nhân dân, phải chịu sự giám sát của Nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình nếu như những quyết định đó ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, Nhân dân. Đồng thời, cũng để Nhân dân có thể giám sát được tổ chức và hoạt động của Đảng, từ đó giúp cho Đảng quy trách nhiệm đối với tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên giữ các chức vụ trong hệ thống công vụ (Đảng “chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”). Nếu từng hoạt động cụ thể của tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên vượt quá phạm vi lãnh đạo chính trị mà vi phạm chủ quyền Nhân dân thì cũng là trái với ý dân và trái với Hiến pháp. Như vậy, Nhân dân cũng phải có trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng, giám sát hoạt động của tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên để đảm bảo cho Đảng luôn thực sự “là đạo đức, là văn minh” xứng đáng vai trò, vị trí của một Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, trách nhiệm của tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên trước Nhân dân cũng là trách nhiệm chính trị. Trách nhiệm đó sẽ được xác định bởi mức độ tín nhiệm chính trị của Nhân dân đối với Đảng, bởi mức độ ủng hộ các quyết định cụ thể của Đảng trong thực tiễn. Mức độ ủng hộ hay phản đối các quyết định của các tổ chức Đảng và hành vi của cán bộ, đảng viên trong quá trình Nhân dân giám sát, sẽ là căn cứ để lãnh đạo xác định mức độ chịu trách nhiệm cụ thể của từng cấp ủy Đảng, từng cá nhân cụ thể trong các trường hợp cụ thể. Do đó, để quy định của Hiến pháp về trách nhiệm của Đảng trước Nhân dân mang được ý nghĩa khả thi trên thực tiễn, cần nghiên cứu thể chế hoá thành các quy định của pháp luật người đứng đầu, góp phần củng cố cơ sở pháp lý để xác định rõ trách nhiệm của từng cấp ủy Đảng, của người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên trong việc đưa ra quyết sách và triển khai thực hiện chủ trương, đường lối liên quan đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân.

Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật người đứng đầu CQHCNN cũng phải kế thừa được những thành quả tìm tòi, đổi mới nhằm cải cách để hoàn thiện chế độ công vụ đáp ứng yêu cầu cụ thể trong xây dựng Đảng về công tác cán bộ trong tình hình mới như về: “... Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”(1).

Thứ hai, pháp luật người đứng đầu phải góp phần hoàn thiện được cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực Nhà nước.

Hiến pháp năm 2013 đã hiến định nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011, đồng thời bổ sung một nội dung rất quan trọng, đó là: “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước…” (khoản 3 Điều 2). Sự bổ sung này đã giúp cho nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được hoàn thiện hơn, góp phần khắc phục tình trạng pháp lý của sự thiếu kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.

Để kiểm soát được tốt quyền lực nhà nước thì địa vị pháp lý, trong đó những vấn đề có hệ thống chức danh, thẩm quyền và chế độ, chính sách có liên quan người đứng đầu phải tương xứng được với yêu cầu, mục tiêu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Trong đó, cán bộ là đại biểu dân cử chuyên trách, trước hết các đại biểu Quốc hội chuyên trách phải được pháp luật khẳng định rõ vị thế của những người hoạt động chính trị, đồng thời có cơ chế giúp họ bảo đảm thực thi các quyền giám sát hữu hiệu đối với các cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp các cấp, để tâm tư, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân thông qua các đại biểu do mình bầu ra có thể được giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật mà không để xảy ra tình trạng đơn thư giải quyết “lòng vòng”, không rõ địa chỉ trách nhiệm trước Nhân dân. 

Đối với người đứng đầu trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp, bên cạnh quy định chung về địa vị pháp lý theo pháp luật người đứng đầu, cần tiếp tục hoàn thiện các quy chế pháp lý đặc thù cho phép thực hiện tốt các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước như thanh tra, kiểm tra. Trong đó, có công tác thanh tra, kiểm tra công vụ đối với người đứng đầu. Việc hoàn thiện các phương thức này, kết hợp với hoàn thiện các quy định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, sẽ góp phần củng cố trật tự pháp chế XHCN và bảo đảm nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước trong quá trình vận hành của hệ thống hành chính nhà nước.

Đối với hệ thống tư pháp, Hiến pháp đã hiến định vai trò của tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ: “Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013). Đồng thời, bên cạnh việc tái khẳng định Viện kiểm sát nhân dân có chức năng “kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố”, Hiến pháp năm 2013 có quy định mới về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, đó là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (khoản 3 Điều 107). Hiến pháp năm 2013 cũng đã nâng tầm vị trí và khẳng định vai trò của Kiểm toán nhà nước (theo quy định tại khoản 1 Điều 118), là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch. Để góp phần tăng cường bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động của người đứng đầu các ngành toà án, kiểm sát và kiểm toán nhà nước, pháp luật người đứng đầu cũng cần mở rộng hành lang pháp lý thông thường, giúp cho việc nâng cao tính chuyên nghiệp, chế độ trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, công vụ và các cơ chế tuyển dụng, sử dụng (bổ nhiệm ngạch, điều động, luân chuyển v.v…) và chế độ lương, đãi ngộ.

Thứ ba, pháp luật người đứng đầu CQHCNN phải tiếp tục làm rõ được chế độ trách nhiệm của người đứng đầu

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân đã được long trọng tuyên bố trong Hiến pháp, pháp luật người đứng đầu càng phải nhấn mạnh đến chế độ trách nhiệm, coi đó như một trong những chế định pháp luật quan trọng hàng đầu để góp phần “bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân (Điều 3 Hiến pháp năm 2013). Việc có giới hạn và kiểm soát được quyền lực nhà nước hay không phụ thuộc vào cơ chế chịu trách nhiệm pháp lý, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống công vụ. Đây là một vấn đề khó trong thực tiễn vận hành của hệ thống chính trị bởi tuy Hiến pháp quy định “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”, nhưng lại gắn với “thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”, mà hạt nhân của nó là phương thức “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” (khoản 1 Điều 8 Hiến pháp). Từ yêu cầu nguyên lý hoạt động của bộ máy nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp, dẫn đến phải tổ chức ra mô hình bộ máy nhà nước với các thiết chế lãnh đạo tập thể như Hội đồng, Ủy ban…, ngay cả các thành phần hạt nhân của bộ máy lãnh đạo chính quyền cũng phải tổ chức nguyên tắc tập thể lãnh đạo như: Thường trực Chính phủ, Thường trực Hội đồng, Thường trực Ủy ban… Trong mô hình nhà nước như vậy, việc làm rõ trách nhiệm của tập thể, trách nhiệm của cá nhân, nhất là người đứng đầu các cơ quan trong bộ máy chính quyền các cấp không hề dễ dàng.

Trong hệ thống công vụ của nước ta hiện nay, về mặt hình thức chỉ có một số cán bộ có trách nhiệm chính trị trước cơ quan quyền lực nhà nước (bầu hoặc phê chuẩn chức vụ của họ) và trước Nhân dân. Hình thức trách nhiệm này được thực hiện thông qua các hình thức báo cáo, chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, của đại biểu Quốc hội, miễn nhiệm, hoặc bãi nhiệm các chức vụ khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân. Còn lại, đối với phần đông người đứng đầu, các hình thức trách nhiệm chính vẫn là trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất và trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do tuyệt đại đa số người đứng đầu giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý ở nước ta đều là đảng viên nên họ còn phải chịu trách nhiệm trước tổ chức Đảng là cơ quan có thẩm quyền đề bạt, giới thiệu ứng cử hoặc trực tiếp quản lý họ về mặt nhân sự. Do đó, trách nhiệm trước Đảng xét cho cùng cũng là một dạng trách nhiệm chính trị (trong nội bộ Đảng) bởi nếu không còn sự ủng hộ, tín nhiệm của tổ chức Đảng có thẩm quyền thì người đứng đầu là đảng viên không còn có cơ sở để giữ chức vụ, chức danh trong hệ thống chính trị, lập tức họ sẽ bị thay thế, bị kỷ luật về mặt chính quyền hoặc phải chủ động xin thôi giữ chức vụ, chức danh đang đảm nhiệm. Do đó, trên thực tế trong hệ thống công vụ nước ta, vừa tồn tại song song các văn bản quy phạm pháp luật về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu (chẳng hạn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ), lại vừa có hệ thống quy định của Đảng về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, áp dụng đối với toàn thể người đứng đầu là đảng viên ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị của hệ thống chính trị.

Trên thực tế, các quy định của Đảng liên quan đến trách nhiệm của cán bộ, đảng viên khá toàn diện, đầy đủ và đi vào điều chỉnh rất cụ thể các hành vi so với quy định của pháp luật áp dụng cho người đứng đầu. Trong đó có những quy định liên quan đến nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên như: Quy định số 47-QĐ/TW năm 2012 về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 08-QĐ/TW ngày 25/10/2018 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương; Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/02/2019 về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại với dân và xử lý những kiến nghị, phản ánh của dân; Quy định 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền v.v.. . Các cấp ủy Đảng ở các ngành, các địa phương cũng có những quy định hướng dẫn tương ứng về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên thuộc cấp mình quản lý.

leftcenterrightdel
Pháp luật người đứng đầu CQHCNN phải tiếp tục làm rõ được chế độ trách nhiệm của người đứng đầu. Ảnh minh họa

Quy định của Đảng vừa mang tính quy phạm đạo đức (như quy định về trách nhiệm nêu gương), vừa mang tính chế tài pháp lý xử lý đối với các hành vi có dấu hiệu vi phạm trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hình sự (như tham nhũng, hối lộ, tặng quà, nhận quà vì vụ lợi, để người thân lợi dụng vì vụ lợi... ). Như vậy, nếu áp dụng đầy đủ các quy định của Đảng trong thực tế hoạt động của người đứng đầu thì quy định về chế độ trách nhiệm của họ không phải là thiếu nhưng lại không bảo đảm đầy đủ tính pháp lý hoặc chỉ mang ý nghĩa răn đe, làm tổn hại trực tiếp đến uy tín, không ghi nhận một phần quá trình đóng góp (chẳng hạn như việc đưa ra thông báo cách chức đối với người đứng đầu đã nghỉ hưu, kết thúc nhiệm kỳ giữ chức vụ). Do đó, việc có luật hóa toàn bộ các quy định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu hay chỉ luật hóa ở một mức độ nhất định như trong mối quan hệ công tác hoặc trong ý thức tổ chức kỷ luật (loại trừ một số nội dung về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trên một phương diện như tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống) cũng là một vấn đề cần phải nghiên cứu, hoàn thiện trong pháp luật người đứng đầu.

Thứ tư, xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ trong đó quy định cụ thể về các nguyên tắc và cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu CQHCNN.

Pháp luật và trách nhiệm của người đứng đầu CQHCNN luôn gắn trực tiếp với mô hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Vì vậy, để xây dựng được hệ thống pháp luật này đồng bộ, thống nhất trước hết phải có tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đồng bộ từ trung ương đến địa phương trên cơ sở làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước. Đồng thời, xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của từng loại cán bộ, công chức trong bộ máy… Vì vậy, vấn đề đặt ra trước tiên là phải đẩy nhanh quá trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải dựa trên cơ sở của một hệ thống pháp luật thống nhất và đồng bộ. Trong đó, bên cạnh việc quy định các quyền cơ bản của công dân thì việc xác định các hệ thống quyền và nghĩa vụ của đội ngũ cán bộ, công chức là một việc làm hết sức cần thiết. Trách nhiệm của người đứng đầu CQHCNN cũng cần phải được ghi nhận cụ thể và bảo đảm thực hiện. Quyền hạn của người đứng đầu luôn gắn liền với các nghĩa vụ và trách nhiệm. Trong hệ thống các quyền hạn, trách nhiệm đó, nếu quyền hạn và trách nhiệm được xác định rõ ràng càng thể hiện tính công khai, minh bạch, tính dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, trách nhiệm của người đứng đầu CQHCNN nếu được luật hóa cụ thể sẽ là cơ sở pháp lý chắc chắn cho cơ quan nhà nước, người đứng đầu cơ quan Nhà nước thực hiện các thẩm quyền hành chính của mình, đồng thời, thiết lập chế độ trách nhiệm để tránh các hiện tượng lộng quyền, lạm quyền đang xảy ra ở các CQHCNN. Trên cơ sở các đạo luật đó, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức và cá nhân có thẩm quyền được xác định cụ thể, tạo điều kiện cho Nhân dân, cán bộ cấp dưới yêu cầu người đứng đầu CQHCNN thực hiện đúng trách nhiệm đã được quy định trong luật.

Bên cạnh việc ghi nhận trách nhiệm của người đứng đầu, cần xác định rõ ràng phạm vi trách nhiệm và cách thức, thủ tục thực hiện các trách nhiệm đó. Đây cũng chính là yêu cầu quan trọng đòi hỏi Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải định ra được hoạt động nào cần phải công khai, hoạt động nào cần phải bí mật. Việc đánh giá mức độ đảm bảo pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước sẽ phụ thuộc vào tính chính xác, rõ ràng của các quy định pháp luật, thời gian, địa điểm thực hiện chế độ công vụ và các quy trình thủ tục thực hiện rõ ràng chế độ trách nhiệm đó. Nếu danh mục các trách nhiệm của người đứng đầu CQHCNN không tương ứng với các trình tự, thủ tục và không được điều chỉnh bằng pháp luật, hoặc điều chỉnh một cách không rõ ràng thì sẽ dẫn đến sự tùy tiện trong việc thực hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Điều này đi ngược với bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đó là Nhà nước hạn chế sự tùy tiện. Bên cạnh đó, pháp luật quy định cụ thể về trách nhiệm người đứng đầu CQHCNN sẽ hạn chế việc lấy lý do của đặc thù công việc thuộc lĩnh vực hành chính để người đứng đầu CQHCNN tự cho mình có quyền tối thượng trong cơ quan để áp đặt mệnh lệnh cho các đối tượng dưới quyền của mình. Điều này đòi hỏi pháp luật phải là một đại lượng công bằng nhất, phân định quyền hạn của cán bộ, công chức dưới quyền và trách nhiệm của người đứng đầu CQHCNN.

Thứ năm, pháp luật người đứng đầu CQHCNN phải thực sự góp phần xây dựng nền công vụ vì Nhân dân phục vụ, minh bạch và liêm chính

Xuất phát từ bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định “Các cơ quan nhà nước, người đứng đầu, cán bộ, công chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện tiêu cực”. Mối quan hệ giữa người đứng đầu với Nhân dân trong thi hành nhiệm vụ, công vụ cũng chính là hình thức thể hiện của mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân. Do đó, một Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân thì mọi hoạt động của người đứng đầu cũng phải thể hiện đúng tinh thần của Hiến pháp như đã nêu trên. Pháp luật người đứng đầu phải đóng góp trước hết vào việc ghi nhận và đề cao các giá trị đạo đức công vụ, trong đó cần có các quy định cụ thể hóa bổn phận của người đứng đầu trước Nhân dân trong quá trình giải quyết công việc liên quan đến quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân, cũng như kiểm soát chặt chẽ các hành vi nhân danh quyền lực nhà nước của họ bằng cơ chế giám sát của Nhân dân.

Một trong những tiền đề quan trọng để Nhân dân kiểm soát được hoạt động của người đứng đầu, đó là yêu cầu về tính minh bạch (transferancy) trong thực thi nhiệm vụ, công vụ và nghĩa vụ giải trình đối với hoạt động của người đứng đầu. Minh bạch trong thực thi nhiệm vụ đối với người đứng đầu không có nghĩa là phải công khai toàn bộ hoạt động của người đứng đầu với tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ trực tiếp (mặc dù kết quả hoạt động của họ chi phối trực tiếp quyền, lợi ích của nhân dân thì luôn phải công khai), mà điều quan trọng là các hoạt động đó phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ bằng các quy định của pháp luật để cơ quan nhà nước cấp trên và nhất là cơ quan dân cử, đại biểu dân cử có thể nắm rõ được thực chất hành vi của người đứng đầu có đi ngược với quyền, lợi ích hợp pháp của Nhân dân hay không kết quả hoạt động, qua đó mà đánh giá được người đứng đầu có thực sự vì dân không.

Thứ sáu, pháp luật phải tạo ra các thiết chế giám sát đa dạng, làm cơ sở đảm bảo cho pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước được triển khai trong thực tiễn. Để đảm bảo pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước được triển khai trong thực tiễn, đòi hỏi pháp luật phải xác định trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát là người đứng đầu cơ quan nhà nước và chính hoạt động của cơ quan đó. Việc thiết lập các quy định về giám sát đối với hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước phụ thuộc vào hoạt động lập pháp của Quốc hội. Chỉ khi nào cơ quan lập pháp thấy được vai trò của của các thiết chế giám sát và cụ thể hóa vai trò đó thành các quy phạm pháp luật thì khi đó, pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước mới thực sự là cơ sở pháp lý cho sự đảm bảo quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu nhà nước.

Thứ bảy, pháp luật cần cụ thể hóa các biện pháp chế tài đối với cơ quan Nhà nước, người đứng đầu CQHCNN có hành vi vi phạm pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu. Chế tài là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm xác định trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm các quy định pháp luật. Hệ thống các chế tài được xác định dựa trên các dấu hiệu cụ thể và phải được pháp luật quy định một cách rõ ràng, dễ áp dụng thì mục đích điều chỉnh của pháp luật mới có hiệu quả trên thực tiễn.

Cuối cùng, pháp luật cần tạo ra hệ thống đảm bảo cho cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện ra tòa khi người đứng đầu CQHCNN vi phạm pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước. Đồng thời, xác định sự vào cuộc của các cơ quan điều tra đối với các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Giải quyết các khiếu nại và xét xử đối với các khiếu kiện của cá nhân là trách nhiệm của nhà nước, các cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức, thẩm phán có thẩm quyền. Việc giải quyết nhanh gọn, đúng pháp luật về nội dung và thời hạn cũng như tuân thủ về thủ tục pháp lý thể hiện được tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan Nhà nước. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu CQHCNN chỉ được khẳng định là được đảm bảo khi các xung đột về quyền và trách nhiệm của người đứng đầu với cấp dưới, với công dân bằng các con đường giải quyết chính thống. Thông qua giải quyết các khiếu nại và xét xử khiếu kiện, Nhà nước nắm được nhu cầu và bức xúc của công dân đối với chính sách pháp luật, đối với hành vi công vụ của người đứng đầu CQHCNN, trên cơ sở đó, có các biện pháp sửa đổi pháp luật, chấn chỉnh hoạt động công vụ của người đứng đầu có hành vi vi phạm nhằm thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn của người đó với các chủ thể khác./. 

Đỗ Tú Anh

Tạp chí Thanh tra

Chú thích:

(1)   Nghị quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay;

(2)   Xem Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018

 

 

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra