Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam - Một vấn đề đặt ra

Thứ sáu, 31/12/2021 16:27
(ThanhtraVietNam) - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN), lãng phí đã nhận định: “Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.

Để triển khai thực hiện Nghị quyết, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về PCTN đến năm 2020 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ), xác định rõ quan điểm, mục tiêu, các nhóm giải pháp, cũng như lộ trình thực hiện công tác PCTN. Sau hơn 10 năm thực hiện, tình hình tham nhũng đã có nhiều cải thiện, tuy nhiên vẫn diễn ra ở mức độ nghiêm trọng, phức tạp, phổ biến và ngày càng tinh vi trên nhiều lĩnh vực. Bài viết xin đóng góp một cách tiếp cận, đánh giá, bình luận và đưa ra một số gợi ý về nội dung chính sách trong Chiến lược quốc gia về PCTN của Việt Nam làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, trong đó có việc xem xét ban hành Chiến lược mới cho giai đoạn tiếp theo.

leftcenterrightdel

Tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội nghị tổng kết Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 và kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, tháng 4/2021.

1. Khái quát Chiến lược quốc gia về PCTN của Việt Nam đến năm 2020

Thứ nhất, Chiến lược quốc gia PCTN là quyết định chủ đạo (quyết định chính sách) được xây dựng, ban hành dưới dạng văn bản và triển khai thực hiện bởi chủ thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết vấn đề tham nhũng một cách có hệ thống, lộ trình xác định. Chiến lược quy định trực tiếp các mục tiêu và hệ thống giải pháp PCTN nhằm giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra phù hợp với bối cảnh của một giai đoạn cụ thể.

Thứ hai, Chiến lược được ban hành dựa trên cơ sở khách quan là tình hình, nguyên nhân của tình hình tham nhũng và chịu sự chi phối bởi mong muốn chủ quan của Nhà nước. Chiến lược quốc gia về PCTN đến năm 2020 được ban hành để giải quyết tình hình tham nhũng diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội với hàng loạt các nguyên nhân về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Việc xây dựng Chiến lược quốc gia về PCTN cho giai đoạn tiếp theo cần phải được tiến hành trên cơ sở xác định, dự báo quy mô, tính chất, mức độ, đặc thù, nguyên nhân của tình hình tham nhũng giai đoạn tiếp theo để có thể đề ra được các mục tiêu đúng đắn, phù hợp và giải pháp trọng tâm nhằm giải quyết được các nguyên nhân cơ bản của tình hình tham nhũng giai đoạn tới.

Thứ ba, hệ thống giải pháp của Chiến lược có đối tượng và phạm vi tác động lớn, khó định lượng được hiệu quả, tồn tại, vận động trong môi trường chính trị, kinh tế - xã hội tương ứng. Cùng với quá trình đổi mới không ngừng cơ chế quản lý, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đô thị hóa, sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, sự phát triển mạnh của khu vực tư, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động, hội nhập kinh tế dưới sự tác động của cách mạng công nghiệp 4.0… sẽ nảy sinh nhiều hơn những điều kiện, nguyên nhân, cách thức thực hiện hành vi tham nhũng mới tinh vi, khó phát hiện, khó xử lý trong phạm vi quốc gia. Tất cả bối cảnh đó cần được tính toán đầy đủ khi vạch ra hệ thống giải pháp cho Chiến lược PCTN giai đoạn mới.

Thứ tư, Chiến lược có lộ trình triển khai cụ thể và phân công trách nhiệm thực hiện các giải pháp một cách rõ ràng. Chiến lược phải được thực hiện và đánh giá kết quả cụ thể khi hết thời hạn. Vì vậy, lộ trình triển khai phải xác định rõ ràng theo từng giai đoạn nhỏ, gắn với mục tiêu cụ thể, giải pháp trọng tâm của giai đoạn đó và trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Thứ năm, Chiến lược có cơ chế kiểm tra, đánh giá, tiêu chí đo lường việc triển khai thực hiện. Việc đánh giá, đo lường sẽ giúp kịp thời điều chỉnh mục tiêu, giải pháp trọng tâm của từng giai đoạn nhỏ triển khai thực hiện. Khi kết thúc, việc đánh giá theo tiêu chí sẽ giúp cụ thể hóa các hiệu quả, các hạn chế, vướng mắc và tìm ra bài học cho việc xây dựng Chiến lược giai đoạn tiếp theo đúng đắn, phù hợp và hiệu quả hơn.

2. Một số vấn đề đặt ra về mặt nội dung và quá trình triển khai Chiến lược quốc gia PCTN của Việt Nam đến năm 2020

Dựa trên bối cảnh ban hành, Chiến lược xác định mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể, trong đó mục tiêu chung là: “Sử dụng tổng thể các giải pháp PCTN; vừa tích cực, chủ động trong phòng ngừa, vừa kiên quyết trong phát hiện, xử lý với những bước đi vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, trong đó phòng ngừa là cơ bản, lâu dài; gắn PCTN với thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí”.

Trên cơ sở các mục tiêu đề ra, Chiến lược đã xác định 5 nhóm giải pháp cơ bản gồm: (1) Tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật; (2) Hoàn thiện chế độ công vụ, công chức, nâng cao chất lượng thực thi công vụ; (3) Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch; (4) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử trong phát hiện, xử lý tham nhũng; (5) Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong PCTN. Đồng thời, Chiến lược cũng xác định rõ lộ trình triển khai chia làm ba giai đoạn nhỏ và trách nhiệm của các chủ thể trong việc tổ chức thực hiện các nhóm giải pháp của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức hữu quan và việc theo dõi, đánh giá việc thực hiện Chiến lược.

Tuy nhiên, nội dung Chiến lược và quá trình triển khai thực hiện Chiến lược cho thấy một số vấn đề như sau:

Về nội dung của Chiến lược

Mục tiêu chung của Chiến lược đề cập đến việc “thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng”, tuy nhiên mục tiêu cụ thể chưa nhấn mạnh nhiều đến tính cấp bách của việc phát hiện, xử lý nghiêm minh hành vi tham nhũng, chưa đủ mạnh để tạo ra những đột phá trong PCTN. Mục tiêu thiết lập hệ thống đo lường, giám sát tham nhũng cũng chưa được cụ thể hóa thành các giải pháp cụ thể trong Chiến lược. Một số mục tiêu cụ thể về phòng ngừa tham nhũng quá lý tưởng so với thực tế nền công vụ, khó hoàn thành ở thời điểm năm 2020 khi các yếu tố nền tảng chưa được hoàn thiện. Để khắc phục một bước vấn đề này, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 28/4/2016 về tăng cường các biện pháp phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 29/11/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công tác PCTN đến năm 2020, trong đó nêu rõ việc phát hiện, xử lý tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng là rất quan trọng và cấp bách. Các văn bản này cho thấy sự điều chỉnh kịp thời về mục tiêu để gia tăng hiệu quả công tác PCTN. Tuy nhiên, để công tác PCTN hiệu quả hơn trong giai đoạn tiếp theo, cần thiết phải điều chỉnh mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của Chiến lược với những lý do đã nêu ở trên.

Nội dung chính sách trong Chiến lược chưa đáp ứng hết các định hướng của Đảng trong đó có định hướng chính sách PTCN phải có trọng tâm, trọng điểm, tuy nhiên hiện nay vẫn bị dàn trải trên nhiều nội dung khác nhau. Một số chủ trương của Đảng đề ra chưa được Chính phủ thể chế hóa như: Nghiên cứu tổ chức cơ quan PCTN theo hướng bảo đảm sự độc lập cần thiết với các cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính và chịu sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Trung ương; sửa đổi, bổ sung pháp luật về thanh tra, kiểm toán theo hướng xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cơ quan trong phát hiện, xử lý tham nhũng; mở rộng mô hình thi tuyển chức danh cán bộ quản lý cấp vụ, cấp phòng, nhất là người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp (y tế, giáo dục, khoa học - công nghệ, doanh nghiệp nhà nước)…

Về quá trình triển khai thực hiện Chiến lược

Quá trình triển khai Chiến lược giai đoạn vừa qua đã bộc lộ một số hạn chế sau đây: Hệ thống văn bản pháp luật chưa cụ thể hóa hết những giải pháp đã được Chiến lược đưa ra, một số văn bản pháp luật quá trình thực hiện đã bộc lộ hạn chế, bất cập nhưng việc sửa đổi, bổ sung, khắc phục còn chậm; năng lực về tài chính, nhân sự, công cụ kỹ thuật của nền hành chính, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng hết yêu cầu của Chiến lược; hệ thống giám sát, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện còn thiếu chặt chẽ, hiện đại, chưa phát huy hết vai trò phản biện của xã hội. Cho tới tháng 6/2016, qua hai giai đoạn của Chiến lược, Việt Nam mới ban hành “Bộ chỉ số đánh giá công tác PCTN đối với UBND cấp tỉnh - CAPA INDEX”; giai đoạn 1 và giai đoạn 2 thực hiện Chiến lược cũng không có tổng kết, đánh giá một cách chính thức mà lồng ghép vào quá trình tổng kết thi hành Luật PCTN và Nghị quyết số 82/NQ-CP của Chính phủ. Cho tới thời điểm này, mục tiêu của Chiến lược vẫn chưa đạt được ở mức độ cao khi các báo cáo chính thức của Chính phủ đều thừa nhận tham nhũng đã từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, có chiều hướng thuyên giảm nhưng vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, có biểu hiện tinh vi hơn, vẫn còn tham nhũng trong chính các cơ quan có chức năng PCTN.

3. Một số gợi ý nội dung chính sách cho việc xây dựng Chiến lược quốc gia về PCTN của Việt Nam giai đoạn tiếp theo

Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCTN, trong thời gian tới cần tiếp tục ban hành Chiến lược quốc gia về PCTN cho giai đoạn tiếp theo (đến năm 2030), trong đó cần tập trung vào một số định hướng chính sách sau đây:

Thứ nhất, mục tiêu của Chiến lược cần nhấn mạnh tới tính cấp bách của việc phát hiện, xử lý nghiêm minh hành vi tham nhũng. Trọng tâm phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng cần được khẳng định rõ ràng ở mục tiêu chung và cụ thể hóa thành các mục tiêu cụ thể làm căn cứ xác lập các giải pháp và công cụ mạnh mẽ hơn, nhất là trong việc lập ra thiết chế với thẩm quyền điều tra, truy tố đủ mạnh để phát hiện, điều tra, truy tố hành vi tham nhũng. Các mục tiêu liên quan đến phòng ngừa cũng cần phù hợp với thực tế để đảm bảo khả năng hoàn thành tối đa khi kết thúc giai đoạn chính sách.

Thứ hai, Chiến lược quốc gia về PCTN đến năm 2030 cần đề ra giải pháp đột phá, hiệu quả hơn trong việc phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng như thu hồi tài sản tham nhũng, đảm bảo tính độc lập của cơ quan chuyên trách PCTN, xử lý tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài… các giải pháp phòng ngừa có trọng tâm hơn, phù hợp với thực tế nền công vụ như xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc công khai, minh bạch các hoạt động của cơ quan nhà nước, phát triển dịch vụ công trực tuyến ở các cấp...

Thứ ba, bổ sung giải pháp về tiêu chí, chỉ số đánh giá quốc gia về tình hình tham nhũng, đa dạng hóa hình thức đánh giá bằng cách tự tiến hành những cuộc điều tra, khảo sát quy mô lớn trên cả hai đối tượng là cán bộ, công chức và người dân, doanh nghiệp để đảm bảo tính chính xác, khách quan trong các báo cáo khảo sát, đánh giá thay vì chỉ tập trung vào các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo chuyên đề nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan. Có cơ chế để các tổ chức xã hội, người dân, doanh nghiệp giám sát và đưa ra những góp ý nhằm phát huy tối đa vai trò phản biện của xã hội trong PCTN. Tham khảo cách thức triển khai điều tra xã hội học, đánh giá chính thức của các tổ chức quốc tế đối với công tác PCTN của Việt Nam.

Thứ tư, cần chú trọng việc xác định tổng thể hiện trạng tình hình tham nhũng và nguyên nhân để thiết kế Chiến lược đảm bảo tính khoa học, có mục tiêu phù hợp với hiện trạng vấn đề, có tính khả thi, hiệu quả, có hệ thống các giải pháp, công cụ đồng bộ, thống nhất, toàn diện, hiệu lực và tạo ra bước đột phá trong việc kiểm soát tình hình tham nhũng. Hiệu quả của Chiến lược đòi hỏi khuôn khổ pháp lý đồng bộ, khả thi không chỉ dựa trên yêu cầu của công tác PCTN, của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà còn phải đáp ứng yêu cầu của các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia trong đó có Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, các hiệp ước về kinh tế… và tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.

Thứ năm, việc xây dựng Chiến lược phải gắn với việc tổng kết, đánh giá thực tiễn, đánh giá tác động. Trong từng giai đoạn cụ thể, trên cơ sở các báo cáo chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đánh giá, khuyến nghị của các tổ chức quốc tế, ý kiến phản biện của xã hội. Chính phủ cần giao trách nhiệm cho các cơ quan chức năng tiến hành tổng kết thực tiễn, đánh giá tác động của Chiến lược đối với mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, từ đó có những điều chỉnh phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu mà Chiến lược đề ra./.

Ths. Phạm Thị Thu Hiền
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra