Nghị định 84 có nhiều điểm mới so với Nghị định cũ. Trước hết, về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Dân tộc được tăng thêm và mở rộng, từ 24 nhiệm vụ trong Nghị định cũ nâng lên 26 nhiệm vụ trong Nghị định mới. Nhiệm kỳ này, các nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc được Nghị định 84 quy định rõ hơn, cụ thể hơn, đặc biệt điểm mới của Nghị định lần này quy định rất rõ ràng về nhiệm vụ: “Điều tra, nghiên cứu, tổng hợp về tình hình phát triển kinh tế-xã hội của các dân tộc, thành phần dân tộc, tên gọi, phong tục, tập quán các dân tộc thiểu số và những vấn đề khác về dân tộc” và nhiệm vụ “Trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền tiêu chí xác định thành phần dân tộc, danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam”.
Về cơ cấu tổ chức để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban Dân tộc có sự thay đổi quan trọng. Điểm mới Nghị định lần này không quy định có các thành viên Ủy ban như Nghị định cũ là Thứ trưởng của 8 Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nội vụ, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động-Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo, Văn hóa-Thể thao và Du lịch, Tài nguyên và Môi trường. Theo Nghị định 84, cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc có Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, các Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc và các đơn vị thuộc Ủy ban Dân tộc; lần này, Nghị định mới cũng quy định rõ chức danh “Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm” thay vì “Phó Chủ nhiệm” như Nghị định cũ.
Đi liền với sự thay đổi về cơ cấu tổ chức là cơ chế làm việc. Cơ cấu tổ chức theo mô hình có thành viên Ủy ban như trước đây, phần lớn những nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc thực hiện chỉ mang tính phối hợp; nay theo Nghị định 84, Ủy ban Dân tộc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ với tính chủ động cao hơn và hiệu quả hơn trong tổ chức xây dựng chiến lược, chính sách, đề án, dự án, chương trình hành động, quy hoạch về phát triển kinh tế-xã hội, củng cố an ninh quốc phòng vùng dân tộc và miền núi trình cấp có thẩm quyền xem xét phê duyệt hoặc ban hành. Đặc biệt, công tác chỉ đạo, kiểm tra và hướng dẫn thực hiện chiến lược, chính sách; rà soát các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành có liên quan đến công tác dân tộc; rà soát việc thực hiện chính sách dân tộc ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và ở các địa phương để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, so với Nghị định cũ, Nghị định 84 quy định số lượng các đơn vị thuộc Ủy ban Dân tộc tăng thêm 1 vụ mới là Vụ Dân tộc thiểu số, giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê thuộc phạm vi quản lý nhà nước về công tác dân tộc, hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác dân tộc, bộ dữ liệu về công tác dân tộc thiểu số Việt Nam…
Các đơn vị sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc có thêm Nhà khách Dân tộc.
Các vụ quản lý nhà nước được tổ chức cấp phòng có Vụ Chính sách Dân tộc, Vụ Địa phương II, Vụ Địa phương III theo Nghị định cũ và lần này, Nghị định mới quy định bổ sung thêm Vụ Kế hoạch-Tài chính được tổ chức phòng, với số lượng là 2 phòng. Theo đó, lần này Vụ Tổng hợp không được tổ chức phòng; đối với Văn phòng Ủy ban có cấp phòng và Văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Bộ trưởng, Chủ nhiệm, nhiệm kỳ này, Ủy ban Dân tộc sẽ thành lập thêm 3 đơn vị: Văn phòng Điều phối Chương trình 135; Ban Quản lý xây dựng cơ bản; Ban Quản lý Dự án Điện mặt trời.
Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 12 năm 2012, thay thế Nghị định số 60/2008/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc; bãi bỏ các quy định trước đây trái với Nghị định này.