<!--[if gte mso 9]><xml>
<w:WordDocument>
<w:View>Normal</w:View>
<w:Zoom>0</w:Zoom>
<w:PunctuationKerning/>
<w:ValidateAgainstSchemas/>
<w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid>
<w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent>
<w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText>
<w:Compatibility>
<w:BreakWrappedTables/>
<w:SnapToGridInCell/>
<w:WrapTextWithPunct/>
<w:UseAsianBreakRules/>
<w:DontGrowAutofit/>
</w:Compatibility>
<w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel>
</w:WordDocument>
</xml><![endif]-->
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial"><div style="text-align: center;"><img alt="" src="http://file.thanhtravietnam.vn/data/old_img/Portals/0/NEWS_IMAGES/anhdt/2014_7/imagehandlerlargeashx.jpg" width="500px"></div><div style="color: #666666;font-size: 11px;line-height: 18px;text-align: center;font-style:italic;">Ảnh minh họa</div>Tôi muốn
nói về Tô Hoài bắt đầu từ một truyện ngắn ít được biết đến của ông – truyện
ngắn “Tình buồn” được ông viết năm 1993. Với tôi, đây là một truyện ngắn cảm
động. Nhân vật chính của câu chuyện là bà cụ Tứ, già sinh lẫn, nói trước quên
sau, đám con cháu trong nhà phải cố gắng nhẫn nhịn chịu đựng. Thế nhưng trong
mấy ngày cuối đời, bà lão lẩn thẩn trước đó còn khiến mấy đứa cháu trêu cười vì
dở chứng hay ăn vụng trong bếp bỗng nhiên trở nên tỉnh táo, minh mẫn lạ thường.
Bà lão sai con trai cả sang làng bên kia sông tìm một ông lão mà chỉ đến khi
ấy, anh con trai mới biết ông lão kia từng là người yêu của mẹ mình. Chỉ đến
khi ấy, đám con cháu trong nhà mới biết mẹ mình có một quá khứ gai góc thế nào.
Thời còn con gái, bà cụ Tứ từng bất chấp sự can ngăn, thậm chí đòn đánh của cha
mẹ, yêu một người con trai có địa vị thấp hơn, đến mức muốn hai người cùng nhảy
xuống sông mà chết nếu không đến được với nhau. Người con trai bà yêu có nhiều
lý do để không quyết định như thế. Trước ngày bị ép gả cho người khác, bà cụ Tứ
bỏ làng đi. Rồi lấy một người khác, sống đời âm thầm, tránh tiếp xúc tối đa với
thiên hạ, chỉ quanh quẩn làm lụng nơi ruộng vườn. Rồi già cả, khó tính, lẩm
cẩm, mất trí nhớ. Chỉ riêng một điều duy nhất đã không tuột khỏi trí nhớ của
bà: bà muốn gặp lại người đàn ông mình đã từng yêu năm nào chỉ để nói một lời
xin lỗi. Xin lỗi vì đã chẳng hiểu nổi những éo le của ông khi ấy, khi quyết bỏ
đi biệt chẳng để lại lời nào cho ông. Chỉ khi nói xong lời xin lỗi ấy, bà mới
có thể nhắm mắt.</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial">Nhân vật
trong truyện ngắn ấy của Tô Hoài vừa đáng thương, vừa đáng trách nhưng đồng
thời cũng vừa rất đáng trọng. Sự thấu đáo trong cái nhìn của Tô Hoài về con
người có lẽ cũng là ở chỗ đó: ông thấy mình, thấy nhân vật của mình loay hoay
một cách khốn khổ mà cũng buồn cười trong cõi đời lắm mối nhùng nhằng. Tôi
thuộc lứa hậu sinh, tôi biết Tô Hoài trước tiên ở cái phần hồn hậu, trong sáng
trong những truyện đồng thoại viết cho trẻ thơ, tôi không trải nghiệm một giai
đoạn lịch sử văn học phức tạp với nhiều phép thử rất nghiệt ngã đối với nhân
cách và văn cách của các nghệ sĩ để có thể xác nhận Tô Hoài là một người khôn
ngoan, khéo léo, do đó, giữ được cho mình một vị thế yên ổn, vững vàng. Khi đọc
truyện ngắn “Tình buồn”, tôi thấy ở ông một cái nhìn độ lượng, chân tình về con
người. Sự độ lượng, chân tình ấy cũng là cảm giác tôi có được khi đọc những Cát
bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người khác – những dấu mốc văn chương quan trọng
cuối đời của ông. Đó là sự độ lượng, chân tình mà văn chương nên có, cần phải
có để hiểu được con người thay vì chỉ chăm chắm phán xét, kết luận về nó. Văn
chương khác với đạo đức và cũng mạnh hơn đạo đức cũng chỉ là ở khi nó thoái
thác phán xét mà thay vào đó, cố gắng ghi lại, cố gắng lắng nghe những nỗi cắc
cớ, oái oăm của những tình thế nhân sinh.</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial">Bà cụ Tứ
trong truyện ngắn “Tình buồn” vào lúc cận kề với cái chết hơn bao giờ hết bỗng
trở nên quyết liệt như chính mình thời con gái, khi phải nói bằng được lời xin
lỗi với người đàn ông mình đã từng yêu vì hồi đó đã chưa biết thông cảm hết cho
ông, chưa thấu hiểu được ông. Tôi cứ muốn nghĩ nỗi day dứt, nỗi khẩn thiết cần
phải thành thật của nhân vật trong câu chuyện như là ẩn dụ về động cơ sáng tác
của chính Tô Hoài ở giai đoạn cuối đời văn. Tuổi già khiến con người có một cảm
nhận rõ rệt về sức mạnh của hư vô. Nó im lặng và lạnh lùng, nó gặm nhấm ký ức
cá nhân, làm rơi rụng ngôn ngữ, nó từ từ đồng hóa những tự sự nhỏ, những lịch
sử nhỏ vào một lịch sử lớn duy nhất, đông đặc. Chính trong điều kiện giáp mặt
với hư vô ấy, sự viết thực sự trở thành sức mạnh bởi viết tức là làm hiện hữu,
viết là phá bỏ một lịch sử đơn nhất và đơn trị. Một bộ phận đáng kể của văn
chương Việt Nam đương đại chính là những tự thuật, tự thú cuối đời của các nhà
văn như Nguyễn Khải, Chế Lan Viên, Bùi Ngọc Tấn..., đương nhiên trong đó có Tô
Hoài. Có lẽ không nên quá nghiệt ngã khi chất vấn: tại sao chỉ đến lúc đó, lúc
tiệm cận với hư vô, những câu chuyện như thế, những tự thú như thế mới được
viết ra? Sự thật, nhất là từ những trải nghiệm cá nhân, khi được nói lên luôn
đáng trân trọng và có lẽ không bao giờ là quá muộn. Đối mặt với hư vô – cái thứ
câm lặng vô hình mênh mông ấy – thực ra cần nhiều can đảm để viết hơn người ta
nghĩ. Lời của con người sẽ còn lại, độc lập với tiếng nói của thứ lịch sử luôn
muốn lợi dụng khả năng hư vô hóa của thời gian để bảo tồn tính đơn nhất của nó.
Chúng ta sẽ biết được gì ngoài thứ lịch sử đơn nhất ấy nếu như không có những
lời tự thú, tự thuật kia?</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial">Trong nhiều
bài viết nói về kinh nghiệm viết văn, Tô Hoài hay nhắc đến tầm quan trọng của
việc ghi nhớ, quan sát và bản thân ông cũng thường được nhắc đến như một mẫu
mực của tài ghi nhớ và quan sát trong các tài liệu bàn về quá trình sáng tạo
của nhà văn. Sự phong phú của kho ký ức vừa là ưu thế nhưng cũng vừa là trách
nhiệm đối với nhà văn, nhất là khi hư vô mỗi lúc lại lừng lững hiện lên muốn
phủ trùm lên ký ức. Bản thân nhan đề những tác phẩm của ông như Chuyện để quên,
Chiều chiều, Cát bụi chân ai... đã bàng bạc một nỗi ám ảnh về hư vô. Kho ký ức
của Tô Hoài chất chồng những mẩu chuyện nhỏ, những chi tiết có vẻ như lặt vặt,
những quan sát tinh quái mà thật may ông đã không để lịch sử lớn quét chúng đi,
để hư vô kịp khỏa lấp chúng. Những lịch sử nhỏ được Tô Hoài kể lại bằng một
phong cách mang hơi hướng giai thoại và cái duyên trong cách kể chuyện của Tô
Hoài, một phần quan trọng, nằm ở lối giai thoại này. Lối kể chuyện giai thoại
tự nó đã gợi ra tính phi đơn nhất của lịch sử, nó cho thấy có thể có những sự
thật khác nằm ở phía ngoài lề, ngoài dòng chính. Viết những lịch sử nhỏ ấy, Tô
Hoài biến ký ức cá nhân của mình thành một ký ức công cộng, nơi đó, hư vô có
thể phải dừng lại.</span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial">Giai đoạn
cuối trong đời văn, Tô Hoài chủ yếu chỉ viết về “chuyện cũ”. Điều đó thiết
tưởng không khó hiểu vì đối với người già, ký ức nhiều khi là phần giàu có
nhất. Những chuyện cũ được làm sống dậy với những lớp ngôn từ mang đầy chứng
tích, dấu vết của thời đại. Trên phương diện này, văn của Tô Hoài có thể xem
như một bảo tàng lịch sử của chữ, nơi đó, ngay cả những chữ thô tháp, dân dã
nhất của đời thường cũng được lưu giữ. Đọc Ba người khác, những lứa hậu sinh
như chúng tôi có thể thấy được ngôn ngữ một thời bày ra trò chơi làm người ta
khốn đốn như thế nào. Đọc Chuyện cũ Hà Nội, chúng tôi, những kẻ hậu sinh, biết
được một đời sống ngôn ngữ sống động của người dân ngoại ô với những tiếng
lóng, tiếng bồi, từ chỉ nghề nghiệp, từ chỉ bánh trái, thức ăn, trang phục...
Ngôn ngữ Tô Hoài không hướng đến sự cầu kỳ, sang trọng với những phép tu từ duy
mỹ kiểu Nguyễn Tuân, Vũ Bằng. Ông nghiêng về chăm chú lắng nghe, nâng niu lời
ăn tiếng nói của những con người bình dân trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.
Hà Nội trong văn Tô Hoài không lấp lánh ánh sáng kinh kỳ, cũng không “nghèo mà
sang”. Đó là một Hà Nội lầm than, lấm láp, chịu thương chịu khó với những con
người ven đô bụi bặm, chân chất. Nhưng chính ở họ, từ quan sát của Tô Hoài, ta
lại thấy được những tình cảm đạo đức rất tự nhiên hình thành giữa con người với
con người. Đấy cũng là điều cần phải bảo lưu, không phải chỉ trên trang sách. </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial">Tô Hoài
viết để làm chúng ta nhớ. Khi sự hư vô xâm lấn mạnh mẽ vào đời sống ở mọi
phương diện, chẳng đợi đến tuổi già người ta mới thấm thía, nhớ có lẽ cũng là
một cách kháng cự. </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial"> </span></p>
<p class="MsoNormal"><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial"> </span></p>
<p style="text-align: right;" class="MsoNormal"><i><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial">Theo Trần
Ngọc Hiếu</span></i></p><i>
</i><p style="text-align: right;" class="MsoNormal"><i><span style="font-size:10.0pt;font-family:Arial">Tia sáng</span></i></p>
<!--[if gte mso 9]><xml>
<w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156">
</w:LatentStyles>
</xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]>
<style>
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Times New Roman";
mso-ansi-language:#0400;
mso-fareast-language:#0400;
mso-bidi-language:#0400;}
</style>
<![endif]-->