Chủ tịch UBND thị xã Nghi Sơn phải bồi thường, hỗ trợ cho bà Doan đúng quy định

Thứ hai, 16/09/2024 16:00
(ThanhtraVietNam) - Từ kết quả thẩm tra, xác minh, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa kết luận nội dung khiếu nại của bà Doan là có cơ sở và yêu cầu Chủ tịch UBND thị xã Nghi Sơn bồi thường, hỗ trợ cho hộ bà Doan theo đúng quy định.

Dân tái định cư Khu đô thị Đông Tăng Long “mòn mỏi” chờ cấp sổ

Bình Định: Tình hình khiếu nại, tố cáo tăng so với cùng kỳ năm trước

Tăng cường đối thoại giữa lãnh đạo với người dân

Chủ tịch tỉnh Quảng Bình tiếp dân định kỳ tháng 9

Thực hiện dân chủ ở cơ sở: Lắng nghe và giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh

Hòa Bình: Giải quyết dứt điểm 2.284 vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh

Thành phố Lai Châu: Tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc, đảm bảo không để xảy ra điểm nóng

Cần sớm có biện pháp xử lý ô nhiễm không khí đối với Công ty Cổ phần CP Việt Nam

Ngày 10/9/2024, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định số 3649/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (KN) lần 2 của bà Nguyễn Thị Doan, thôn Lương Bình, xã Tùng Lâm, thị xã Nghi Sơn.

Bà Doan khiếu nại: Khi ban hành Quyết định số 4397/QĐ-UBND ngày 17/6/2024 để điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 7340/QĐ-UBND ngày 16/11/2023 về việc giải quyết KN của bà, Chủ tịch UBND thị xã Nghi Sơn chỉ bồi thường là đất nông nghiệp (không bồi thường và hỗ trợ là đất vườn ao) cho gia đình bà đối với 02 thửa đất trích đo số 38 (diện tích 225,1m2) và thửa số 45 (diện tích 251,1 m2) là không đúng. Bà Doan đề nghị phải bồi thường và hỗ trợ cho gia đình bà đối với diện tích 02 thửa đất trích đo nêu trên là đất vườn ao.

Kết quả xác minh cho thấy, ngày 10/5/1994, hộ gia đình ông Lê Đình Dương (chồng bà Doan) đã được UBND huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi Sơn) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng (GCNQSD) đất diện tích 1.910m2, bao gồm 200m2 đất thổ cư và 1.700m2 nông nghiệp.

Tuy nhiên, tại thời điểm cấp GCNQSD đất cho hộ ông Dương không ghi số thửa đất thổ cư (do tại thời điểm cấp GCNQSD đất năm 1994 xã Tùng Lâm chỉ mới có bản đồ 299 đo vẽ năm 1987. Trên bản đồ này thể hiện khu vực đất có nhà ở của hộ ông Dương hiện nay đang có đơn KN đang là thửa đất hoang đo bao). Do đó, trước năm 1987, hộ bà Doan chưa có nhà ở trên khu vực thửa đất hoang này.

leftcenterrightdel
Ảnh minh họa, nguồn: chinhphu.vn 

Tại bản đồ hiện trạng xã Tùng Lâm đo vẽ năm 1998, thửa đất có nhà ở của hộ ông Dương, bà Doan thể hiện tại thửa 1096, tờ bản đồ số 05, diện tích 5.990m2 loại đất T.

Theo đó, căn cứ vào bản đồ 299 và bản đồ 1998 nêu trên xác định: Thửa đất có nhà ở của hộ ông Dương, bà Doan (thửa 1096, diện tích 5.990m2 loại đất T) được hình thành sau năm 1987 trước năm 1998, tương ứng với khoảng thời gian “được hình thành” sau ngày 18/12/1980 đến trước ngày 01/7/2004 quy định tại khoản 3 Điều 103 Luật Đất đai năm 2013.

Như vậy, hộ bà Doan đã được cấp GCNQSD đất với 200m2 đất ở là đúng quy định. Diện tích đất ở được xác định là diện tích theo GCNQSD đất đã được cấp.

Đồng thời, “Phần diện tích vườn ao còn lại” 5.790m2 của thửa đất 1096 nêu trên không được công nhận là đất ở và được xác định theo quy định tại khoản 6 Điều 103 Luật Đất đai năm 2013 là đất vườn, ao.

Qua kiểm tra bản đồ và Sổ mục kê năm 2011 của xã Tùng Lâm, cho thấy, Bản đồ xã Tùng Lâm đo vẽ năm 2011 có sự sai khác về thửa đất của hộ ông Dương so với bản đồ đo vẽ năm 1998. Tuy nhiên, khi chồng ghép diện tích các thửa đất năm 2011 với bản đồ năm 1998 thì các thửa đất này đều nằm trong phạm vi của thửa đất số 1096, tờ số 05, bản đồ năm 1998.

Mặt khác, sổ mục kê đều ghi tên người sử dụng các thửa đất nêu trên vẫn là hộ ông Dương, không có tranh chấp. Đến thời điểm thu hồi, gia đình ông Dương (chồng bà Doan) vẫn đang sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất nông nghiệp.

Từ những cơ sở trên, UBND tỉnh Thanh Hóa kết luận: Diện tích đất 476,2m2 (thửa trích đo số 38 và thửa 45) của hộ bà Doan, ông Dương có nguồn gốc là đất vườn ao trong cùng thửa đất có nhà ở (thửa 1096 tờ số 05, bản đồ xã Tùng Lâm đo vẽ năm 1998), được hình thành từ ngày 18/12/1980 đến trước ngày 01/7/2004; từ năm 1998 đến khi thu hồi, gia đình không có đề nghị tách thửa, vẫn đang sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Do đó, đủ điều kiện xác định và bồi thường, hỗ trợ là đất vườn ao theo quy định tại khoản 6 Điều 103 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 10 Điều 17 Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 3161/2014/QĐ-UBND ngày 26/9/2014 của UBND tỉnh.

Vì vậy, tại Quyết định số 3649/QĐ-UBND về việc giải quyết KN lần 2 đối với bà Doan, UBND tỉnh Thanh Hóa quyết định bà Doan KN đòi được bồi thường, hỗ trợ là đất vườn, ao đối với diện tích đất 476,2m2 (của thửa đất số 38 và thửa số 45, trích đo phục vụ giải phóng mặt bằng) là có cơ sở.

Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa yêu cầu Chủ tịch UBND thị xã Nghi Sơn thực hiện trình tự, thủ tục để bồi thường, hỗ trợ cho hộ bà Doan theo đúng quy định./.

Minh Nguyệt

TIN LIÊN QUAN

Ý kiến bình luận
Họ và tên *
Email *
 
Nội dung bình luận *
Xác thực *

Bản quyền thuộc Tạp chí Thanh tra